CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có
thể phân chia. Khi chưa chia tài sản chung vợ chồng thì không thể xác định tỉ
lệ phần quyền của vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung.
Phần lớn các trường hợp chia tài sản chung vợ chồng, Tòa án
sẽ áp dụng nguyên tắc chia đôi. Tuy nhiên nguyên tắc nào cũng có những ngoại lệ
nhất định, nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng cũng vậy. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Nguyên tắc này được áp dụng khi chia tài sản chung nhằm mục đích bảo vệ phụ nữ, trẻ em,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Thứ hai: Việc chia tài sản chung vợ chồng phải bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục
lao động tạo thu nhập.
Thứ ba: Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá
trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được
hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Chia theo phương
thức như sau: Đầu tiên chia bằng hiện vật, nếu không thể chia bằng hiện vật mới
thanh toán theo giá trị và chia bằng tiền trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của các
bên vợ chồng một cách công bằng và hợp lý
Thời
kỳ hôn nhân của vợ chồng được xác định kể từ ngày hai bên đăng ký kết hôn hoặc
từ thời điểm được xác định là tồn tại đối với quan hệ hôn nhân thực tế.
QUYỀN
NUÔI CON KHI LY HÔN
Khi cha mẹ ly hôn, Tòa án sẽ xem xét
giải quyết quyền nuôi con khi ly hôn cho một trong hai bên vợ hoặc chồng,
Tòa án không thể tiếp tục làm công việc liên kết người cha và người mẹ cùng
sống chung với trẻ.
Những đứa con sẽ được giao cho một bên cha hoặc mẹ trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, trên cơ sở tự thỏa thuận của cha mẹ, nếu
cha mẹ tranh chấp quyền nuôi con thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 luật hôn nhân và gia đình
2000: Vợ chồng thỏa thuận về quyền nuôi con khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì
Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi
mặt của con; nếu con từ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi nếu
không có thỏa thuận nào khác. Vợ chồng đều có quyền bình đẳng trong việc trông
nom, chăm sóc, giáo dục con. Khi cha mẹ ly hôn, việc giao con chưa thành niên
cho vợ hoặc chồng, trước hết dựa vào sự thỏa thuận của cha mẹ.
Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì Tòa án giải
quết việc giao con cho một bên vợ hoặc chồng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Khi giải quyết việc giao con cho một bên vợ hoặc chồng trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, Tòa án cần tuân thủ những căn cứ sau:
Thứ nhất: Việc giao con cho một bên cha hoặc mẹ nuôi phải trên cơ
sở căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con.
Thứ hai: Nếu con từ 9 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của
con.
Thứ ba: Về nguyên tắc con dưới 36 tháng tuổi thì giao cho mẹ trực
tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Trong ba căn cứ nêu trên, căn cứ thứ nhất đóng vai trò là căn cứ
quan trọng, then chốt mà trong mọi trường hợp Tòa án phải áp dụng khi giải
quyết giao con cho một trong các bên vợ, chồng trực tiếp nuôi dưỡng.
Một điều nữa cũng cần lưu ý là tuy giành được quyền nuôi con khi ly hôn, nhưng trong quá trình nuôi
dưỡng, chăm sóc con, nếu người cha người mẹ không hoàn thành trách nhiệm của
mình thì người kia có quyền nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiêp nuôi con.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qui định trong tất cả các
trường hợp, sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom
con, chăm sóc và giáo dục con chung, có thể theo định kỳ hoặc thường xuyên theo
thoả thuận của hai bên và không ai được cản trở quyền này. Nếu người không nuôi
con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông
nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người đang trực tiếp nuôi con có
quyền yêu cầu toà án hạn chế quyền thăm nom con của người kia.
0 Nhận xét